Điều trị Lao đa kháng thuốc

Thông thường, bệnh lao đa kháng thuốc có thể được chữa khỏi bằng các đợt điều trị kéo dài bằng thuốc chống lao hàng hai, nhưng những loại thuốc này đắt hơn thuốc hàng đầu và có nhiều tác dụng phụ hơn.[41] Việc điều trị và tiên lượng của MDR-TB giống với điều trị ung thư hơn là điều trị nhiễm trùng. MDR-TB có tỷ lệ tử vong khoảng 15% khi điều trị, điều này còn phụ thuộc vào một số yếu tố, bao gồm:[42]

  1. Lao kháng bao nhiêu loại thuốc (càng ít càng tốt)
  2. Bệnh nhân được dùng bao nhiêu loại thuốc (bệnh nhân được điều trị bằng 5 loại thuốc trở lên sẽ tốt hơn)
  3. Trình độ chuyên môn và kinh nghiệm của bác sĩ
  4. Mức độ hợp tác của bệnh nhân với việc điều trị (việc điều trị rất khó khăn và lâu dài, và đòi hỏi sự kiên trì và quyết tâm của bệnh nhân)
  5. Bệnh nhân có dương tính với HIV hay không (đồng nhiễm HIV có liên quan đến gia tăng tỷ lệ tử vong).

Phần lớn bệnh nhân mắc bệnh lao đa kháng thuốc không được điều trị, vì họ ở các nước kém phát triển hoặc nghèo đói. Từ chối điều trị, hay bỏ điều trị vẫn là một vấn đề khó khăn, liên quan đến nhân quyền. Vì chi phí cao của các loại thuốc hàng hai khiến người nghèo không thể tiếp cận dịch vụ điều trị.[43]

Nói chung, một liệu trình điều trị kéo dài từ nhiều tháng đến nhiều năm; MDR-TB có thể cần phẫu thuật và tỷ lệ tử vong vẫn cao mặc dù có điều trị tối ưu. Tuy nhiên, điều trị vẫn mang lại kết quả tốt.[44]

Việc điều trị MDR-TB phải được thực hiện bởi các bác sĩ có kinh nghiệm trong điều trị MDR-TB. Tỷ lệ tử vong và bệnh tật ở những bệnh nhân được điều trị tại các trung tâm không chuyên khoa cao hơn đáng kể so với những bệnh nhân được điều trị tại các trung tâm chuyên khoa. Điều trị MDR-TB phải được thực hiện trên cơ sở là kháng sinh đồ: không thể điều trị cho những bệnh nhân nếu khống có kháng sinh đồ. Khi điều trị cho bệnh nhân nghi ngờ MDR-TB, trong khi chờ kết quả xét nghiệm kháng sinh đồ trong phòng thí nghiệm, bệnh nhân có thể bắt đầu dùng phác đồ SHREZ (Streptomycin + isoniazid (isonicotinyl Hydrazine)+ Rifampicin + Ethambutol + pyraZinamide) + moxifloxacin (MXF) cùng với cycloserine. Có bằng chứng cho thấy việc điều trị trước đó với một loại thuốc trong hơn một tháng có liên quan đến việc giảm hiệu quả của loại thuốc đó ngay cả khi xét nghiệm in vitro cho thấy vi khuẩn lao vẫn nhạy cảm.[45]

Xét nghiệm GeneXpert MTB/RIF (một loại xét nghiệm sinh học phân tử) giúp phát hiện đột biến gen rpoB gây ra kháng rifampicin. Xét nghiệp này đóng vai trò là một dấu hiệu hữu ích đối với MDR-TB, vì tình trạng kháng R riêng lẻ rất hiếm (ngoại trừ khi bệnh nhân có tiền sử điều trị bằng rifampicin đơn thuần). Nếu kết quả thăm dò gen (rpoB) được biết là dương tính, thì việc bỏ qua R và chỉ sử dụng phác đồ SHEZ+ MXF + cycloserine là hợp lý. Lý do vẫn duy trì cho bệnh nhân dùng isoniazid (H) là vì H rất hiệu quả trong điều trị bệnh lao, tiếp tục duy trì H cho đến khi có bằng chứng vi sinh cho thấy H không hiệu quả (mặc dù tình trạng kháng H thường xảy ra với kháng R).

Để điều trị MDR-TB và lao kháng rifampicin (''RR/TB'') , hướng dẫn điều trị của WHO như sau: "khuyến cáo một liệu trình điều trị phối hợp ít nhất 5 loại thuốc lao hiệu quả trong giai đoạn tấn công, bao gồm pyrazinamide và 4 loại thuốc chống lao hàng hai chính. Trong 4 thuốc này có 1 thuốc được chọn từ Nhóm A, 1 thuốc từ Nhóm B và ít nhất 2 thuốc chọn từ Nhóm C3 (mức độ khuyến cáo, bằng chứng có độ chắc chắn rất thấp). Nếu số lượng loại thuốc chống lao có hiệu quả không đủ như đã nêu ở trên, bổ sung 1 thuốc từ Nhóm D2 và các thuốc khác từ Nhóm D3 để sao cho tổng số loại thuốc lên thành 5. Khuyến cáo rằng chế độ điều trị nên được tăng cường hơn nữa với liều cao H và/hoặc E (mức độ khuyến cáo, bằng chứng có độ chắc chắn rất thấp)."[46] Các loại thuốc khuyên dùng như sau:

  • Nhóm A: Fluoroquinolone (levofloxacin, moxifloxicin), linezolid, bedaquiline
  • Nhóm B: clofazimine, cycloserine/terizidone
  • Nhóm C: Các thuốc hàng hai khác (ethambutol, delamanid, pyrazinamide, imipenem-cilastatin/meropenem, amikacin/streptomycin, ethionamide/prothionamide, acid p-aminosalicylic)

Tháng 8 năm 2018, theo “Thông báo nhanh” (rapid communication) của WHO, những bệnh nhân lao kháng rifamcipin (RR-TB) hoặc đa kháng thuốc (MDR-TB) không có tiền sử sử dụng thuốc lao hàng hai và không kháng với nhóm fluoroquinolone (FQ) hoặc được coi là rất khó có khả năng kháng với FQ, có thể được điều trị bằng phác đồ ngắn hạn hơn (STR) gồm thuốc tiêm hàng hai (tốt nhất là dùng thuốc uống hoàn toàn) thay cho phác đồ dài hạn hiện hành. (khuyến cáo có điều kiện, bằng chứng có độ chắc chắn rất thấp)."[47][48]

Một số chất bổ sung có thể hữu ích, sử dụng như là thuốc hỗ trợ trong điều trị bệnh lao, nhưng không đếm gộp vào số lượng loại thuốc chống lao khi dùng kèm thuốc điều trị MDR-TB (nếu đã có 4 loại thuốc trong liệu trình điều trị, có thể thêm arginin hoặc vitamin D hoặc cả hai, nhưng vẫn sẽ cần một loại thuốc chống lao khác để tạo ra 5 loại thuốc). Các chất bổ sung là: arginin[49], vitamin D,[50] Dzherelo,[51] V5 Immunitor.[52]

Các loại thuốc được liệt kê dưới đây từng được sử dụng khi tìm mọi biện pháp nhưng không thể tìm được đủ 5 loại thuốc chống lao. Không chắc rằng các loại thuốc này có hiệu quả hay không. imipenem,[53] amoxicillin/acid clavulanic,[54][55] clofazimine,[56][57][58] prochlorperazine,[59] metronidazole.[60]

Vào ngày 28 tháng 12 năm 2012, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã phê duyệt bedaquiline (được bán trên thị trường với tên Sirturo của Johnson & Johnson) để điều trị bệnh lao đa kháng thuốc, phương pháp điều trị mới đầu tiên sau 40 năm. Sirturo sẽ được sử dụng trong liệu pháp phối hợp cho những bệnh nhân đã thất bại với phương pháp điều trị tiêu chuẩn và không có lựa chọn nào khác. Sirturo là một chất ức chế adenosine triphosphate synthase (ATP synthase).[61][62]

Các loại thuốc sau đây là các hợp chất thử nghiệm không có sẵn trên thị trường, nhưng có thể được lấy từ nhà sản xuất như một phần của thử nghiệm lâm sàng. Hiệu quả và độ an toàn của chúng vẫn chưa nghiên cứu: pretomanid[63] (do Novartis sản xuất, được phát triển với sự hợp tác của TB Alliance),[64]delamanid.

57 quốc gia đã báo cáo kết quả những bệnh nhân bắt đầu điều trị lao siêu kháng thuốc (gồm 9258 bệnh nhân). 39% hoàn thành điều trị thành công, 26% bệnh nhân tử vong và 18% điều trị thất bại. Trong nghiên cứu thuần tập này, 84% case lao siêu kháng thuốc 3 quốc gia: Ấn Độ, Liên bang Nga và Ucraina. Liệu trình điều trị ngắn hạn đối với MDR-TB đã được chứng minh là có lợi với tỷ lệ điều trị thành công cao hơn.[65]